Đầu nước

Từ đồng nghĩa

vernacular = “hydrocephalus“ plural = tràn dịch não

Định nghĩa

Não úng thủy là sự mở rộng ngày càng tăng của dịch não tủy (não thất) của não do rối loạn tuần hoàn, hấp thụ hoặc sản xuất dịch não tủy.

Phân phối tần số

50% tổng số bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi bệnh cảnh lâm sàng của “não úng thủy / não úng thủy” là trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, nửa còn lại là người lớn, trong đó chủ yếu là những người trên 60 tuổi bị não úng thủy. Dựa trên điều này, 25% trường hợp não úng thủy là bẩm sinh hoặc kết hợp với khiếm khuyết của ống thần kinh (giai đoạn phát triển của trung hệ thần kinh). Tỷ lệ mắc các dạng bẩm sinh này (não úng thủy bẩm sinh) là 1-4 trên 1000 ca sinh.

Triệu chứng ở người lớn

Sản phẩm các triệu chứng của não úng thủy ở người lớn là do sự gia tăng áp lực trong sọ. Ở người lớn, sọ xương tạo thành một không gian đóng kín, không thể mở rộng. Do sản xuất quá nhiều chất lỏng não hoặc tắc nghẽn ống dẫn lưu, áp lực lên não mô tăng lên.

Các lỗ hổng trong não, chứa chất lỏng não, mở rộng và ép vào các cấu trúc nhạy cảm trong não. Sự gia tăng áp lực này dẫn đến những thất bại tương tự như những trường hợp xảy ra với đột quỵ. Những người bị ảnh hưởng phàn nàn về thị lực bị suy giảm, đau đầu và chóng mặt.

Rối loạn vận động, chẳng hạn như dáng đi không an toàn, cũng được biết đến. Trong một số trường hợp, những thay đổi của nhân vật và trí nhớ rối loạn cũng có thể. Trong trường hợp chẩn đoán muộn, não cũng có thể bị co thắt.

Những người bị ảnh hưởng ngất xỉu vì các bộ phận của não bị co lại và chức năng của họ bị suy giảm. Điều này đặc biệt bao gồm thân não, nơi chứa trung tâm tuần hoàn và trung tâm hô hấp. Điều này điều kiện rất nguy hiểm đến tính mạng.

Để có thể chẩn đoán “não úng thủy”, điều đầu tiên và quan trọng nhất là phải chụp tiền sử bệnh (anamnesis). Tiếp theo là khám thần kinh, trong đó đặc biệt chú ý đến các các triệu chứng của não úng thủy. Hơn nữa, các thủ tục hình ảnh được sử dụng, cụ thể là chụp X-quang máy tính (cCT) hoặc cái đầu MRI (cMRI, spin hạt nhân).

Tuy nhiên, ngoại trừ những tình huống khẩn cấp, cái đầu MRI thường là phương pháp ưu tiên để phát hiện não úng thủy. Việc ghi lại sóng não bằng điện não đồ (điện não đồ) cũng có thể cung cấp thông tin quan trọng về sự hiện diện của não úng thủy. Các lựa chọn chẩn đoán khác bao gồm đo áp lực của dịch não tủy hoặc Xạ hình.

Loại trước đây thường không còn được sử dụng để chẩn đoán, loại sau dùng để phát hiện sự hấp thụ bị rối loạn của dịch não tủy với sự trợ giúp của các chất phóng xạ. Chu vi của cái đầu nên được đo thường xuyên để phát hiện sự gia tăng thể tích của sọ và do đó bị tràn dịch não trong thời gian. Để làm rõ tình trạng mở rộng tâm thất hiện có, bước đầu tiên là siêu âm kiểm tra (siêu âm) đầu và bước tiếp theo là chụp CT hoặc MRI đầu.

Ngoài ra, phản xạ của quỹ đạo mắt rất hữu ích để phát hiện chảy máu hoặc tắc nghẽn nhú gai như một dấu hiệu của não úng thủy. Chụp cộng hưởng từ (MRI) cũng được sử dụng để phát hiện não úng thủy. Ở đây bạn sẽ tìm thấy tất cả các chủ đề chẩn đoán