Kem điều trị bệnh vẩy nến | Điều trị bệnh vẩy nến

Kem để điều trị bệnh vẩy nến

Việc điều trị bệnh vẩy nến bao gồm việc sử dụng các loại kem dưỡng da khác nhau. Mọi bệnh nhân với bệnh vẩy nến nên được chăm sóc cơ bản với các loại kem có chứa axit salicylic và Urê. Những loại kem này giúp nới lỏng vảy da.

Ngoài ra, da khô nên được điều trị bằng các loại kem dưỡng ẩm. Ví dụ về các loại kem dưỡng ẩm như vậy là Dermalex hoặc Physioderm®. Ngoài ra, các loại kem và thuốc mỡ với các thành phần hoạt tính tại chỗ khác nhau có thể được bác sĩ da liễu kê đơn.

Những loại kem như vậy có chứa các chất điều trị thông thường tại chỗ. CortisoneCác loại thuốc tương tự, được gọi là corticoid, được sử dụng trong điều trị tại chỗ bệnh vẩy nến. Các loại thuốc này không chỉ có tác dụng chống viêm mà còn có tác dụng ức chế sự phát triển của các lớp trên của da.

Ví dụ như một loại kem, các hoạt chất mometasone furoate và betamethasone benzoate được bôi cục bộ lên các vùng da bị ảnh hưởng. Theo quy định, các tác nhân hoạt động được áp dụng tối đa 3 lần một ngày. Thành công điều trị đầu tiên có thể được nhìn thấy sau 1 đến 2 tuần.

Có đến 50% bệnh nhân đạt được kết quả mỹ mãn. Tuy nhiên, liệu pháp nên được giới hạn trong một vài tuần, nếu không thay da, chẳng hạn như teo da (mỏng dần), có thể xảy ra. Cortisone- loại thuốc thường được sử dụng kết hợp với các thành phần hoạt tính khác.

Cái gọi là vitamin D các chất tương tự là một thành phần quan trọng của liệu pháp điều trị tại chỗ của bệnh vẩy nến. Các hoạt chất calcipotriol và tacalcitol là các dẫn xuất của vitamin D và được áp dụng cho bệnh vẩy nến dưới dạng thuốc mỡ, kem và nhũ tương. Các chế phẩm được áp dụng 1 đến 2 lần một ngày.

Thành công chữa bệnh có thể được mong đợi sớm nhất sau 2 đến 3 tuần. Các loại thuốc được dung nạp rất tốt, không giống như cortisone-như các chất hoạt tính, cũng thích hợp cho liệu pháp dài hạn trên 12 đến 18 tháng. Chúng có thể được sử dụng tốt khi kết hợp với corticoid hoặc liệu pháp UV.

Khi được áp dụng trên một khu vực rộng lớn, chúng có thể ảnh hưởng đến canxi cân bằng, đặc biệt là ở trẻ em. Vì vậy, chúng không nên được sử dụng trên diện tích lớn. Cách đây một thời gian vitamin B12 thuốc mỡ và kem đã có mặt trên thị trường được các nhà sản xuất tương ứng khuyên dùng để điều trị bệnh vẩy nến.

Tuy nhiên, các chế phẩm này không thể được khuyến cáo bởi y học thông thường. Hiệu quả của chúng rất bị nghi ngờ. Về lý thuyết, thuốc mỡ vitamin B-12 được cho là "ngăn chặn" các quá trình viêm của da và do đó làm giảm bớt phản ứng viêm. Tuy nhiên, không có bằng chứng thuyết phục về hiệu quả này, do đó việc sử dụng thuốc mỡ vitamin B-12 không được khuyến cáo trong hướng dẫn điều trị bệnh vẩy nến hiện hành.

Liệu pháp ánh sáng

Liệu pháp ánh sáng là một lựa chọn điều trị phổ biến và rất hiệu quả đối với bệnh vẩy nến. Hình thức trị liệu này đặc biệt sử dụng 2 tác động của tia UV. Thứ nhất, sự phát triển tế bào của các lớp da trên bị ức chế và thứ hai, hệ thống miễn dịch là điều chỉnh thấp.

Điều này có thể dẫn đến cải thiện các triệu chứng của bệnh vẩy nến. Liệu pháp ánh sáng thông thường sử dụng ánh sáng UV-B với bước sóng 311 nanomet. Chiếu xạ được thực hiện khoảng 3 đến 5 lần một tuần.

Sau khoảng 2 đến 3 tuần điều trị đầu tiên thành công. Sau khoảng sáu tuần điều trị, 75% bệnh nhân hết triệu chứng. Liệu pháp này gây ra các phản ứng phụ ở một số bệnh nhân, chẳng hạn như đỏ da, ngứa và kích ứng, tuy nhiên chỉ có tính chất tạm thời.

Trong quá trình điều trị, người ta nên tránh ánh sáng mặt trời bổ sung. Một sửa đổi của liệu pháp ánh sáng là PUVA. Liệu pháp này bao gồm chiếu xạ da bằng ánh sáng UV-A và thoa thêm hoạt chất psoralen. Chất này được thoa lên da hoặc dùng dưới dạng viên nén và làm tăng độ nhạy cảm của da với tia UV. Ở đây, thậm chí 90% bệnh nhân không có triệu chứng.