Buspirone: Ảnh hưởng, Sử dụng & Rủi ro

Buspirone là tên được đặt cho một chất chống lo âu. Nó được sử dụng để điều trị rối loạn lo âu.

Buspirone là gì?

Buspirone là tên được đặt cho một chất chống lo âu. Nó được sử dụng trong điều trị of rối loạn lo âu. Buspirone là một loại thuốc có tác dụng giảm lo lắng. Nó cản trở sự trao đổi chất của dẫn truyền thần kinh serotonin. Không giống như chống lo âu khác thuốc như là benzodiazepines, buspirone không tạo ra tác dụng tích cực của nó trong vài tuần. Tuy nhiên bù lại, hoạt chất này có ưu điểm là không khiến bệnh nhân mệt mỏi, phụ thuộc. Buspirone được phát hiện vào năm 1972 bởi một nhóm các nhà khoa học làm việc cho Công ty Dinh dưỡng Mead Johnson, một nhà sản xuất thực phẩm cho trẻ em. Việc cấp bằng sáng chế cho buspirone diễn ra vào năm 1975. Thuốc được giới thiệu vào thị trường Mỹ vào năm 1986 bởi công ty dược phẩm Bristol-Myers Squibb. Từ năm 1996, buspirone cũng được phép bán ở Đức. Kể từ khi bảo hộ bằng sáng chế hết hạn vào năm 2001, buspirone cũng có thể được bán trên thị trường như một chủng loại thuốc uống.

Hành động dược lý

Buspirone phát huy tác dụng của nó trong việc điều trị rối loạn lo âu. Rối loạn lo âu đề cập đến những nỗi sợ dai dẳng thường không thể được biện minh rõ ràng và có tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Đây có thể là về cuộc sống nghề nghiệp, các mối quan hệ xã hội sức khỏe. Không có gì lạ khi những người bị ảnh hưởng bị các vấn đề về thể chất như căng thẳng, Hoa mắt, nhịp tim nhanh, run, các vấn đề về giấc ngủ, buồn nôn or đau đầu. Trạng thái lo âu có thể được giảm bớt bằng các chế phẩm làm giảm lo âu, chủ yếu bao gồm benzodiazepines. Do đó, việc sử dụng chúng có thể cải thiện cả các triệu chứng về tinh thần và thể chất. Tuy nhiên, hầu hết thuốc loại này có nhược điểm lớn là dễ gây nghiện sau vài tuần sử dụng. Nếu sau đó chúng được ngừng sử dụng, các triệu chứng lo lắng và các tác dụng phụ khó chịu của chúng sẽ xuất hiện trở lại với cường độ gia tăng. Tuy nhiên, có thể tránh được sự phụ thuộc bằng cách dùng buspirone. Sau vài tuần sử dụng, cấu trúc tế bào thần kinh của não tự sắp xếp lại. Sự chuyển mạch của các tế bào thần kinh (tế bào thần kinh) được thay đổi bởi sự kích hoạt của một số vị trí gắn kết, còn được gọi là các thụ thể, trên chất truyền tin serotonin. Vì lý do này, tác dụng tích cực của thuốc giảm lo âu chỉ trở nên rõ ràng sau một thời gian. Ngoài cái gọi là hormone hạnh phúc serotonin, buspirone cũng phát huy tác dụng của nó đối với dopaminenorepinephrine, kích thích sự thúc đẩy tinh thần. Không giống như benzodiazepines, buspirone không ảnh hưởng đến các thụ thể GABA, rất quan trọng đối với giấc ngủ của con người. Do đó, có rất ít tác dụng phụ từ việc sử dụng thuốc. Các hấp thụ của buspirone vào máu diễn ra nhanh chóng qua thành ruột sau khi uống vào. Từ đó, thành phần hoạt tính được vận chuyển với máu về phía gan. Khoảng 95 phần trăm thành phần hoạt tính bị vô hiệu hóa ở đó. Buspirone đạt mức tối đa trong cơ thể sau 60 đến 90 phút. Chỉ sau hai đến ba giờ, mức độ lại giảm xuống 50 phần trăm. Buspirone được bài tiết ra khỏi cơ thể qua nước tiểu và phân.

Sử dụng và ứng dụng y tế

Buspirone được sử dụng trong điều trị rối loạn lo âu và trạng thái căng thẳng. Thuốc cũng được coi là hữu ích cho sự bồn chồn bên trong. Mặc dù dùng buspirone không gây lệ thuộc, thuốc vẫn chỉ nên dùng trong thời gian tối đa là bốn tháng. Buspirone được sử dụng dưới dạng viên nén. Hàng ngày liều được chia thành ba cơ quan hành chính riêng lẻ. Các viên nén được dùng độc lập với các bữa ăn. Trong giai đoạn đầu của điều trị, bệnh nhân chỉ mất một ít liều của buspirone. Điều này bao gồm ba lần 5 miligam một ngày. Trong khóa học tiếp theo, với điều kiện không xảy ra tác dụng phụ không mong muốn, liều tăng dần lên 10 miligam, bệnh nhân dùng ba lần một ngày. Trong trường hợp nghiêm trọng, cũng có thể dùng liều tối đa 20 miligam. Buspirone có thể được kê đơn. Do đó, bạn chỉ có thể mua thuốc tại hiệu thuốc khi có đơn của bác sĩ.

Rủi ro và tác dụng phụ

Đôi khi các tác dụng phụ được biểu hiện bằng cách dùng buspirone. Đây hầu hết là chóng mặt và buồn ngủ. Trong số một trăm bệnh nhân cũng gặp phải các tác dụng phụ không mong muốn như lú lẫn, tức giận, rối loạn thị giác, đổ mồ hôi nhiều, phát ban trên da, rối loạn cảm giác, đau trong cơ, nghẹt mũi, đau họng, tưc ngực, ù tai và những cơn ác mộng. Đôi khi phàn nàn về đường tiêu hóa, buồn nôn, ói mửa, tập trung vấn đề, khô miệng, eczema, tê hoặc kêu mỏi tay cũng xảy ra. Rất hiếm khi có nguy cơ tâm trạng thất thường, rối loạn tuần hoàn của não, phản ứng dị ứng, hội chứng serotonin, bệnh của tim cơ bắp hoặc thậm chí là một đau tim. Buspirone hoàn toàn không được sử dụng nếu bệnh nhân bị nặng thận or gan rối loạn chức năng, yếu cơ, co giật hoặc góc hẹp cấp tính bệnh tăng nhãn áp. Trong mang thai, buspirone chỉ nên được dùng khi có sự đồng ý của bác sĩ. Nên tránh hoàn toàn việc sử dụng thuốc trong thời kỳ cho con bú. Trẻ em dưới 18 tuổi cũng không nên dùng buspirone. Tương tác giữa buspirone và các loại thuốc khác cũng được coi là có thể. Vì lý do này, nhất quán giám sát của bệnh nhân sẽ diễn ra nếu họ cũng đang dùng cao huyết áp thuốc, các chế phẩm làm giảm lo âu như benzodiazepin, thuốc chống đông máu thuốc, tim thuốc hoặc thuốc tránh thai. Ngoài ra, điều quan trọng là không sử dụng buspirone cùng lúc với Thuốc ức chế MAO. Lý do cho điều này là một cuộc khủng hoảng sắp xảy ra do cao huyết áp. Nó cũng không được khuyến khích để lấy Erythromycin, nefazodon, Verapamil, itraconazol or cimetidin đồng thời. Những loại thuốc này làm tăng tác dụng của buspirone.